@ Bổ sung hạt nano selen vào chế độ ăn làm tăng khả năng tăng trưởng, chống oxy hóa và phiên mã gen liên quan đến miễn dịch ở tôm thẻ chân trắng…
---Điểm nổi bật - nano selen:
- Tôm thẻ chân trắng được nuôi bằng 0,38 mg hạt nano Selen (Se-N)/kg thức ăn có tốc độ tăng trưởng và sử dụng thức ăn cao hơn..
- Mức Se-N bổ sung trong chế độ ăn kích thích sự tăng trưởng và hiệu quả thức ăn ở tôm thẻ chân trắng P. vannamei ..
- Bổ sung chế độ ăn uống với 0,2–0,4 mg Se-N/kg làm tăng cường hoạt động của phenoloxidase huyết tương ..
- Bổ sung chế độ ăn uống với 0,2–0,4 mg Se-N/kg giúp cải thiện khả năng chống oxy hóa ở tôm thẻ chân trắng P. vannamei ..
- Gen lysozyme và prophenoloxidase được điều chỉnh tăng lên trong gan tụy của tôm được cho ăn chế độ ăn bổ sung Se-N..
-Việc sử dụng dần dần các nguồn protein trên cạn, đặc biệt là protein thực vật (PP) để thay thế bột cá (FM) trong thức ăn thủy sản có thể làm giảm các đặc tính dinh dưỡng của chúng. Trên thực tế, sự hiện diện của nhiều loại yếu tố chống dinh dưỡng (ANF), khả năng tiêu hóa và độ ngon miệng thấp hơn, thiếu hụt hoặc mất cân bằng một số axit amin thiết yếu và khả dụng sinh học thấp hơn của các nguyên tố vi lượng trong các nguồn PP so với FM có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng thức ăn thủy sản ..Đặc biệt là nuôi tôm thâm canh, mật độ cao….
-Hơn nữa, một trong những nhược điểm chính của FM tiết kiệm trong thức ăn thủy sản là sự giảm khả dụng sinh học của các nguyên tố vi lượng có vai trò thiết yếu như các cofactor trong các enzyme chống oxy hóa. Sự thiếu hụt các nguyên tố vi lượng trong chế độ ăn uống có thể dẫn đến chậm phát triển , stress oxy hóa và ức chế miễn dịch ở các loài thủy sản nuôi
+Ví dụ, các loại đậu hoặc thức ăn PP khác được sử dụng trong thương mại làm nguồn protein chính trong chế độ ăn của tôm , nhưng các thức ăn này chứa axit phytic và phytate, có tác dụng liên kết mạnh các khoáng chất thành muối không hòa tan và làm giảm khả năng hấp thụ hiệu quả của chúng.
-Ngoài ra, khả dụng sinh học của các nguyên tố vi lượng trong chế độ ăn uống chủ yếu phụ thuộc vào dạng hóa học và sự hiện diện của ANF .
Ví dụ, nồng độ selen (Se) trong nguồn FM và PP dao động từ 1,5–3,1 mg/kg đến < 0,01–0,16 mg/kg.
+Vì vậy, cần bổ sung các nguyên tố vi lượng vào thức ăn thủy sản để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của động vật thủy sản nuôi nói chung và nuôi tôm thâm canh nói riêng. --Selen là một nguyên tố vi lượng quan trọng có vai trò sinh lý như một thành phần cấu trúc của selenoprotein .
V+í dụ, selenocysteine là một cofactor trong cấu trúc phân tử glutathione peroxidase (GPx) đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ màng sinh học khỏi tổn thương oxy hóa Glutathione peroxidase bằng cách trung hòa hydrogen peroxide và hydroperoxide axit béo bằng cách sử dụng glutathione khử thành nước và rượu axit béo có thể bảo vệ màng tế bào khỏi các loài oxy phản ứng (ROS) ….
-Vai trò Selen trong nuôi trồng thuỷ sản:
-Trong điều kiện tự nhiên, Se thường được động vật thủy sinh hấp thụ từ môi trường, nhưng trong nuôi trồng thủy sản, nguồn chính của nguyên tố này là chế độ ăn và mức tối ưu của nó nằm trong khoảng từ 0,2 đến 1,8 mg/kg ở các loài thủy sản nuôi khác nhau
-Người ta đã xác nhận rằng sự thiếu hụt Se trong chế độ ăn có thể làm giảm sự tăng trưởng, gây ra stress oxy hóa và peroxy hóa lipid do hoạt động GPx thấp và dẫn đến suy giảm miễn dịch ở cá và tôm.
- Cách sử dụng nano Selen đúng cách để đạt hiệu quả cao:
-Tuy nhiên, lượng Se quá mức trong chế độ ăn uống cũng có thể gây ra tác dụng độc hại do tổng hợp quá mức các axit amin seleno-lưu huỳnh ( tức là selenocysteine và selenomethionine) có thể ảnh hưởng tiêu cực đến chức năng của các enzym chống oxy hóa phụ thuộc Se. Dạng phân tử của chất bổ sung Se trong chế độ ăn có thể ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả, khả năng hấp thụ và con đường chuyển hóa của nó ở các loài thủy sản nuôi .Về mặt thương mại, có ba dạng Se như một chất bổ sung chế độ ăn , bao gồm vô cơ ( ví dụ, natri selenit), hữu cơ ( ví dụ, L -selenomethionine) và các hạt nano Se (Se-N) .
-So với các dạng vô cơ và hữu cơ, Se-N có một số ưu điểm như độc tính thấp hơn, khả dụng sinh học cao hơn, hòa tan trong nước nhiều hơn, tính thấm vượt trội do có bề mặt rộng và chức năng tốt hơn do giải phóng Se dần dần dẫn đến khả năng hấp thụ tốt.
-So với các loài giáp xác, thông tin về nhu cầu Se trong chế độ ăn hoặc tác động của các dạng phân tử Se khác nhau ở giáp xác còn hạn chế. Nhu cầu Se trong chế độ ăn tối ưu được báo cáo là khoảng 0,45 mg/kg ở tôm thẻ chân trắng Trung Quốc , 0,48 mg/kg trong tôm thẻ nuôi ở Ấn Độ, , 0,4–0,6 mg/kg .
-Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng việc bổ sung Se vào chế độ ăn, không chỉ tăng cường khả năng chống oxy hóa ,mà còn thúc đẩy phản ứng miễn dịch tế bào ( ví dụ, hoạt động hô hấp bùng phát và số lượng tế bào máu tổng số ) và dịch thể ( ví dụ, hoạt động của lysozyme và phenoloxidase ), khả năng chống chịu bệnh tật và căng thẳng ở các loài giáp xác khác nhau.
-Tuy nhiên, thông tin liên quan đến nhu cầu Se trong chế độ ăn và tác động sinh lý của nó đối với tôm chân trắng Thái Bình Dương ( Penaeus vannamei ) có sẵn nhiều hơn vì loài này chiếm 52,9% tổng sản lượng giáp xác của thế giới (~83,1% tổng sản lượng tôm penaeid và ~ 4% tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản), với khoảng 5 triệu tấn vào năm 2018 (FAO, 2020,FAO, 2021…..). Nhu cầu Se tối ưu trong chế độ ăn của loài này được báo cáo là từ 0,2 đến 0,4 mg/kg Hơn nữa, người ta đã báo cáo rằng tình trạng thiếu Se trong chế độ ăn uống làm giảm tăng cân , số lượng tế bào máu và khả năng chống chịu căng thẳng ở tôm thẻ chân. Ngoài ra, báo cáo rằng việc bổ sung 0,3 mg/kg (58 mg Se/kg chế độ ăn) Se hữu cơ vào chế độ ăn đã làm tăng tỷ lệ tăng trưởng và sống sót ở tôm thẻ chân trắng P. vannamei sau khi thử thách với vi-rút hội chứng Taura ..........Hơn nữa, mức Se tối ưu trong chế độ ăn uống dưới dạng Se-men ở tôm thẻ chân trắng con được báo cáo là khoảng 0,98 mg/kg . Ngoài ra, tác dụng kết hợp của các hạt nano Se và kẽm trong chế độ ăn (0,15 mg Se-N/kg + 15 mg Zn-N/kg) đã thúc đẩy tăng trưởng và sử dụng thức ăn ở tôm thẻ chân trắng dạng vô cơ được báo cáo của Se (natri selenit) ở mức 0,81 mg/kg trong chế độ ăn uống có tác dụng độc hại gây căng thẳng lưới nội chất và tổn thương gan tụy (HP) ở P. vannamei . Hơn nữa cho thấy nguồn Se hữu cơ (0,4 mg Se/kg thức ăn) làm tăng trưởng so với dạng vô cơ; trong khi đó, nhóm Se-N cho thấy giá trị trung gian. Người ta đã xác nhận rằng các chất dinh dưỡng vi lượng dưới dạng hạt nano có thể thúc đẩy sự phát triển của các loài thủy sản nuôi vì chúng có thể khuếch tán trong tế bào hiệu quả hơn, có khả dụng sinh học cao hơn và tăng thời gian lưu giữ chất dinh dưỡng và do đó tăng cường lượng chất dinh dưỡng được hấp thụ qua đường tiêu hóa . Trong nghiên cứu hiện tại, lần đầu tiên một nghiên cứu thiết kế đáp ứng liều lượng bằng cách bổ sung Se-N vào chế độ ăn cơ bản được thực hiện để xác định tác động của nó đến hiệu suất của tôm thẻ chân trắng nhỏ...